Kế hoạch dạy học môn Vật lý Lớp 8 - Chủ đề: Áp suất - Năm học 2019-2020 - Phòng GD&ĐT huyện Đông Hòa
Bạn đang xem tài liệu "Kế hoạch dạy học môn Vật lý Lớp 8 - Chủ đề: Áp suất - Năm học 2019-2020 - Phòng GD&ĐT huyện Đông Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
ke_hoach_day_hoc_mon_vat_ly_lop_8_chu_de_ap_suat_nam_hoc_201.pptx
Nội dung text: Kế hoạch dạy học môn Vật lý Lớp 8 - Chủ đề: Áp suất - Năm học 2019-2020 - Phòng GD&ĐT huyện Đông Hòa
- NĂM HỌC: 2019 - 2020
- 1. Lí do chọn chủ đề. Qua nhiều năm giảng dạy về vật lý lớp 8, bản thân nhận thấy các vấn đề về áp suất có liên quan và được ứng dụng nhiều trong thực tế đời sống hằng ngày, tuy nhiên chương trình vật lí lớp 8 hiện hành thì cách thiết kế và xây dựng hình thành kiến thức mới cho từng bài đối với nội dung về chủ đề áp suất mang tính không liên tục, chưa hình thành rõ nét về sự phát triển năng lực tự học, tìm tòi sáng tạo của học sinh. Chính vì vậy nên tôi chọn chủ đề này để thiết kế lại kế hoạch dạy học theo một chủ đề nhằm làm tăng tính đổi mới sáng tạo trong dạy học.
- 2. Điểm mới của chủ đề. Trên tinh thần thực hiện theo công văn 4612(về hướng dẫn phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh.) của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Phú Yên, trong việc định hướng xây dựng chương trình dạy học, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, của địa phương, nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học môn Vật lý cấp Trung học cơ sở. Những điểm mới trong thiết kế kế hoạch chủ đề dạy học này như sau:
- * Hình thành chủ đề dạy học theo 5 hoạt động. + Hoạt động khởi động. + Hoạt động hình thành kiến thức mới. + Hoạt động luyện tập. + Hoạt động vận dụng thực tiễn. + Hoạt động tìm tòi, mở rộng. -Theo chủ đề này sẽ giúp học sinh rèn luyện được phương pháp tự học, tự nghiên cứu dựa trên các nội dung sách giáo khoa để tiếp cận kiến thức mới.
- Áp suất Áp suất chất MÔ TẢ lỏng CHỦ ĐỀ Bình thông nhau – máy thủy lực Áp suất khí quyển
- * Thông qua chủ đề, học sinh nắm được kiến thức một cách có hệ thống, logic, các em được hình thành và phát triển các năng lực: * Năng lực chung. - Năng lực tự học. - Năng lực sáng tạo. - Năng lực giao tiếp. - Năng lực giải quyết vấn đề. - Năng lực sử dụng ngôn ngữ. - Năng lực hợp tác và tự quản. - Năng lực sử dụng CNTT và truyền thông. - Năng lực tính toán.
- * Năng lực chuyên biệt. - Năng lực sử dụng kiến thức. - Năng lực về phương pháp thực nghiệm và mô hình hóa. - Năng lực trao đổi thông tin. - Năng lực cá thể. * Phẩm chất. - Tích cực trao đổi thảo luận, chủ động, sáng tạo, hợp tác nhóm. - Ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. - Ý thức biết giữ gìn sức khỏe, kĩ năng phòng chống đuối nước. - Ý thức chấp hành tốt các quy định của pháp luật.
- * Với chủ đề, tôi cần sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp làm thí nghiệm, phương pháp thực nghiệm, phương pháp trực quan . nhằm phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. * Điểm mới mà chủ đề đem lại là + Để hình thành kiến thức về “sự tồn tại của áp suất trong lòng chất lỏng”: Giáo viên phân thành 2 trạm kiến thức: Một là: “Chất lỏng có gây ra áp suất không? Nếu có thì áp suất chất lỏng tác dụng theo phương nào, có giống như áp suất của chất rắn không?” Hai là: “Chất lỏng có gây ra áp suất lên các vật ở trong lòng nó không?”
- Để hình thành 2 trạm kiến thức này, giáo viên sử dụng kĩ thuật dạy học khăn trải bàn cụ thể tổ 1, tổ 2 tìm hiểu trạm kiến thức 1 và tổ 3, tổ 4 là tìm hiểu kiến thức trạm 2. Như vậy học sinh sẽ phát huy năng lực làm thí nghiệm và năng lực thực nghiệm, năng lực giao tiếp, trao đổi thông tin để nắm được kiến thức mới. + Một điểm mới nữa mà chủ đề đem đến là: khi hình thành kiến thức về “Công thức tính áp suất chất lỏng”: Giáo viên không theo cách như chương trình hiện hành, mà giáo viên sử dụng phương pháp thu thập, xử lí thông tin trong thực tiễn để hình thành công thức tính áp suất chất lỏng mà tôi đã trình bày cụ thể trong kế hoạch dạy học.
- Làm như vậy đã kích thích được sự yêu thích học bộ môn Vật lí, ham thích khám phá kiến thức mới của học sinh, giúp các em thấy rõ mối quan hệ giữa lý thuyết gắn liền với thực tiễn, mà không bị khô khan, nhàm chán, chỉ mang tính hàn lâm, ít gần gũi với thực tiễn như cách hình thành kiến thức mới ở SGK hiện hành đã nói ở trên. + Cuối cùng, điểm nổi bật của chủ đề này làm tôi muốn nói đến là: