Sáng kiến Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 5

doc 11 trang Lệ Hằng 14/10/2025 400
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_giao_tiep_cho_hoc_sin.doc

Nội dung text: Sáng kiến Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 5

  1. BÁO CÁO BIỆN PHÁP THI GIÁO VIÊN GIỎI HUYỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH LỚP 5 (Tham gia Hội thi giáo viên dạy giỏi cơ sở giáo dục Tiểu học cấp huyện - Năm học 2023-2024) I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn biện pháp Nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng 4.0, một cuộc cách mạng có tốc độ phát triển nhanh chưa từng có trong lịch sử, có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là ngành giáo dục. Trong đó, giáo dục Tiểu học là một bậc học “nền tảng” của hệ thống giáo dục phổ thông. Là bậc học có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người - đặt cơ sở nền tảng cho học sinh phát triển toàn diện. Mục tiêu giáo dục Tiểu học là hướng vào trang bị những kiến thức cơ bản và những kĩ năng cần thiết cho học sinh, và là cơ sở để các em tiếp tục học ở những bậc học tiếp theo. Ông cha ta đã có câu: “ Tiên học lễ, hậu học văn”. Bởi vậy, nhà trường Tiểu học rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, các kĩ năng cơ bản cho học sinh ngay từ khi các em học ở trường. Trong các kỹ năng cơ bản cần hình thành cho học sinh thì kỹ năng giao tiếp đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông qua hoạt động giao tiếp các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ, nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri thức. Do vậy, tôi quyết định tìm hiểu đề tài: "Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 5”. 2. Đối tượng áp dụng - Tất cả giáo viên, học sinh và đặc biệt là học sinh lớp 5. II. NỘI DUNG BIỆN PHÁP 1. Mục tiêu của biện pháp Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề giao tiếp cho học sinh. Đánh giá đúng thực trạng, kĩ năng giao tiếp kết hợp với nét mặt, cử chỉ, hành động của học sinh, cũng như công tác dạy học của giáo viên. Tìm ra nguyên nhân, hạn chế của học sinh trong quá trình giao tiếp với thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh. Từ những khó khăn trên, học sinh cần có kĩ năng giao tiếp tốt, đạt hiệu quả, bản thân tôi đã thực hiện và đưa ra hướng giải quyết, cách khắc phục giúp các em 1
  2. có hành trang vững vàng nhất để các em tự tin khi trình bày một vấn đề, giao tiếp với mọi người xung quanh và sau này có thể giao tiếp với mọi người ở các nước khác trên thế giới. 2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng biện pháp 2.1. Cơ sở lý luận Kĩ năng là năng lực vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hành động có kết quả tương ứng. Đây là tiêu chuẩn để đánh giá năng lực hoạt động của con người, được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa người với người phát sinh từ nhu cầu trong hoạt động chung như các hoạt động giảng dạy, trao đổi thông tin, nhận thức và ảnh hưởng lẫn nhau nhằm thực hiện mục đích nhất định của một hoạt động cụ thể. Từ hai khái niệm trên, chúng ta có thể khái quát khái niệm kĩ năng giao tiếp là năng lực vận dụng những hiểu biết trong quá trình giao tiếp, sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp để định hướng và điều khiển quá trình giao tiếp. Hơn nữa, để có thể thực hiện tốt được kĩ năng giao tiếp, trước hết đối với học sinh Tiểu học phải học tốt môn Tiếng Việt. Trong chương trình học môn Tiếng Việt, phân môn Tập đọc chiếm nhiều thời gian nhất. Đọc với tư cách là một phân môn của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là một dạng hoạt động lời nói, là quá trình chuyển dạng hình thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ dạng hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm). Ngoài ra, còn có các phân môn khác: chính tả, luyện từ và câu, kể chuyện, tập làm văn. Các phân môn này cũng có vai trò quan trọng giúp các em mở rộng thêm về vốn từ, từ vựng đối với phân môn Luyện từ và câu; có thể miêu tả, kể lại các câu chuyện, nhân vật, thông qua lời nói, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ của mình đối với phân môn Kể chuyện; ghi chép, quan sát chi tiết, có chọn lọc các sự vật, hiện tượng, con người để miêu tả một cách chính xác, chân thật nhất, bên cạnh đó còn rèn giũa cho các em trình bày ý tưởng, sắp xếp nội dung theo trình tự đối với phân môn Tập làm văn. 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Tồn tại, hạn chế 2
  3. Các giải pháp trên đã đề cập đến những vấn đề chung khi rèn các kĩ năng giao tiếp cho học sinh mà chưa chú trọng đến các giải pháp để thay đổi nhận thức của giáo viên, phụ huynh. Từ trước đến nay đa số giáo viên và phụ huynh đều chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức: đọc tốt, viết tốt, làm toán tốt việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh còn mang tính chiếu lệ nên dù đã đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông nhưng hiệu quả về việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh vẫn chưa thu được kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó kỹ năng giao tiếp không phải là cái có sẵn, con người không phải sinh ra đã có kỹ năng giao tiếp tốt. Mà kỹ năng giao tiếp phải được rèn luyện và hình thành theo một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những hoạt động, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Vậy làm thế nào để có thể rèn luyện cho học sinh kĩ năng giao tiếp tốt nhất? Giáo viên cần làm gì để giúp học sinh tự tin khi trao đổi, giao tiếp với bạn bè, thày cô và mọi người xung quanh? Điều này khiến tôi luôn trăn trở, suy nghĩ và và tìm ra các giải pháp thích hợp nhất. 2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế Trong giờ Tiếng Việt, một số giáo viên chưa linh hoạt sử dụng phương pháp và hình thức dạy học để phát huy hết tính chủ động, tích cực của tất cả học sinh. Kĩ năng đọc hiểu của học sinh chưa tốt. Nguyên nhân bao trùm nằm trong chính nội dung và phương pháp dạy đọc ở lớp 5 là: dạy đọc hiểu chưa được chú trọng đúng mức. Ngoài ra, trong giờ Kể chuyện, một số giáo viên chỉ quan tâm đến các em học sinh kể tốt, chưa đầu tư vào các em hoàn thành môn học. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy, kĩ năng giao tiếp của học sinh còn khá lúng túng, trình bày một vấn đề còn gặp rất nhiều khó khăn, chưa biết bắt đầu ra sao và kết thúc như thế nào. 3. Nội dung biện pháp Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy ở khối 4 tôi nhận thấy: Để học sinh có thể mạnh dạn hơn trong giao tiếp, có thể trình bày rõ ràng vấn đề muốn nói, nhằm đạt mục tiêu giáo dục toàn diện cần một số giải pháp sau: 3.1. Biện pháp 1: Rèn cho học sinh thực hiện tốt quy tắc ứng xử Học sinh cần phải biết rèn luyện mình để trở thành người có nhân cách tốt, bắt đầu bằng việc thực hiện thật tốt: “Quy tắc ứng xử của học sinh” mà nhà trường đã quy định. Tôi luôn nhắc nhở học sinh của mình rằng: 3
  4. - Khi giao tiếp với người lớn tuổi, thầy cô giáo và nhân viên trong trường phải nói năng lễ độ, xưng hô đúng mực và thể hiện sự kính trọng, lễ phép; - Khi giao tiếp với bạn bè lời lẽ phải hòa nhã, trong sáng, tuyệt đối không nói tục, chửi thề, có thái độ lịch sự, đoàn kết, tôn trọng nhau. - Biết “xin lỗi”, “cảm ơn” đúng lúc. Ví dụ: Thấy 2 bạn đang nói chuyện với nhau xưng hô “ Mày- Tao” các em nên hướng dẫn bạn: - Bạn không nên xưng Mày- Tao khi nói chuyện - Bạn nên nói: “Cậu- Tớ”, “Mình- Tớ” - Chúng mình là học sinh nên phải cư xử thân thiện với bạn Cách này tuy đơn giản nhưng hiệu quả rất cao vì quá trình giao tiếp của học sinh với học sinh diễn ra nhiều hơn nên nếu học sinh biết tự sửa cho nhau sẽ thuận lợi hơn nhiều. 3.2. Biện pháp 2: Lồng ghép giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua các tiết học: Ở bậc tiểu học các môn học có chứa nội dung giáo dục kĩ năng giao tiếp rất nhiều, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học,.... Nhiệm vụ của người giáo viên là phải tự giác, tích cực thực hiện giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh qua mỗi giờ học trên lớp. Thông qua các tiết học trên lớp, giáo viên giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Vậy muốn thông qua hoạt động dạy học mà hướng tới rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thì người giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động học tập làm sao để phát huy được sự tích cực, chủ động, mạnh dạn, tự tin của học sinh trong quá trình học tập. Từ xa xưa ông cha ta đã từng nói: “Học thày không tày học bạn” đây mãi là chân lý đúng đắn. Trong cuộc sống hàng ngày, các em học sinh ngoài giao tiếp với cha mẹ, anh em, thầy cô giáo,.... thì thời gian các em học ở trên lớp cùng bạn học là khoảng thời gian mà các em giao tiếp nhiều nhất. Ví dụ: Trong tiết Kể chuyện, tôi luôn tổ chức cho học sinh kể lại đoạn chuyện, câu chuyện trong nhóm, sau đó kể trước lớp, giúp học sinh rèn kĩ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông, từ đó học sinh nói năng ngày càng lưu loát hơn. Sau khi học sinh kể xong, tôi mời các em nhận xét, trao đổi về nội dung ý nghĩa câu chuyện, nhận xét về cách thể hiện tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện thông qua cử chỉ, điệu bộ, lời kể của bạn để giúp các em tạo cảm giác tự tin khi trao đổi, cách giải quyết một vấn đề có hiệu quả nhất, đặc biệt là 4
  5. giúp các em rèn luyện kĩ năng thể hiện cảm xúc của mình thông qua ngôn ngữ nói và ngôn ngữ hình thể. - Trong các tiết Toán, Khoa học, Lịch sử - Địa lý... khi học sinh đánh giá, nhận xét bài làm hoặc câu trả lời của bạn và đưa ra ý kiến hoặc cách làm của mình, các em đã được rèn kĩ năng giao tiếp một cách đúng mực và kĩ năng chia sẻ. Ví dụ: Bạn làm sai, nhận xét là: "Theo tớ, cách giải thế này" chứ không nói là: "Cậu làm sai rồi" hoặc nhận xét một cách không tế nhị. - Trong các bài học Đạo đức, thông qua hoạt động thảo luận nhóm, đóng vai xử lý tình huống và thực hiện đóng vai xử lý tình huống trước lớp. Các em đã được tham gia ý kiến của mình một cách tự tin thoải mái. Thông qua hoạt động giáo dục đạo đức các em biết gần gũi, quan tâm chia sẻ và thân thiện với bạn, biết giúp đỡ bạn khi cần; từ đó lớp tạo ra một lớp học đoàn kết và thân thiện, các em giao tiếp với nhau thoải mái và vui vẻ với nhau hơn. - Trong các giờ học Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng thể hiện, bộc lộ rõ nét nhất kĩ năng giao tiếp của học sinh thông qua câu văn, đoạn văn. Thông thường, những em giao tiếp tốt thì câu, đoạn văn gãy gọn, trôi chảy và ngược lại. Đối với những bài này, tôi ghi hẳn những câu văn (có khi chưa thành câu) còn sai lên bảng sửa sai ngay. Trong quá trình rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh, tất cả các bài làm văn của học sinh tôi đều chấm rất kỹ, đọc nhiều lần, chữa lỗi bằng mực đỏ. Giờ trả bài cho học sinh, ngoài các bước thông thường như những giáo viên khác, tôi còn tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm yêu cầu học sinh đổi chéo bài, đọc kỹ bài làm của bạn nhiều lần, phát hiện những câu chưa hoàn chỉnh. Giáo viên cùng với học sinh nhận xét, đưa ra phương án sửa lỗi để học sinh biết được vì sao vậy để lần sau không lặp lại. Đồng thời, tôi yêu cầu học sinh viết lại bài văn, khen ngợi biểu dương những học sinh tiến bộ, có câu cú gãy gọn, lời văn phù hợp ngữ cảnh. 3.3. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua việc lựa chọn các hình thức dạy học Để rèn kĩ năng giao tiếp cho các em, tùy từng bài học lựa chọn hình thức dạy học phù hợp. Các hình thức tôi thường áp dụng đó là: thảo luận nhóm, trò chơi học tập... - Thảo luận theo nhóm Thảo luận nhóm: là hình thức dạy học rất có ích trong việc hình thành cho học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ. 5
  6. Hình thức này giúp mọi đối tượng được nói, được trình bày miệng trước tổ, được mạnh dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn đề nào đó trước nhóm. Từ đó, giúp các em rèn kĩ năng giao tiếp, biểu hiện thái độ cử chỉ khi trình bày để tăng thêm sức biểu cảm, tăng sức thuyết phục của vấn đề mà mình trình bày, cũng nhờ đó các em tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn hơn khi nói trước đông người. Tôi xác định, cần tạo ra môi trường học tập thân thiện cho các em, giúp các em hợp tác tốt hơn trong hoạt động nhóm, phát huy tinh thần “Học thầy không tày học bạn”, tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn, suy nghĩ và lựa chọn để đưa ra ý kiến riêng của mình. Tránh làm mất đi tính tự tin dẫn đến tiêu cực. Ví dụ: Khi dạy môn Toán tôi thường tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, với nhiệm vụ mỗi em trong nhóm cùng thảo luận bàn bạc và đi đến thống nhất một nội dung mà giáo viên yêu cầu thảo luận. Cử một bạn ghi vào bảng nhóm kết quả đã thống nhất. Khi các nhóm đã thực hiện xong nhiệm vụ, các nhóm trình bày trước lớp để cả lớp cùng nhận xét về cách trình bày của nhóm bạn. Kết quả tham gia các hoạt động nhóm, các em có thể rèn luyện cho mình cách nói năng rõ ràng, mạch lạc, tự tin. - Trò chơi học tập: Thông qua trò chơi, học sinh được luyện tập, làm việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công và tinh thần hợp tác. Trò chơi tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn thiện kĩ năng giao tiếp của chính mình. - Đóng vai Đóng vai là một trong những phương pháp gây được hứng thú trong học tập cho học sinh (học mà chơi, chơi mà học), rèn tính tự tin, tinh thần đoàn kết đặc biệt đây cũng là điều kiện tốt để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh, song để mang lại hiệu quả, giáo viên và học sinh phải đầu tư nhiều. Ví dụ: Khi học bài: “ Cái gì quý nhất? ” giáo viên có thể cho học sinh đóng vai các nhân vật, học sinh có thể sáng tạo, linh hoạt xử lí tình huống bằng ngôn ngữ, giọng điệu cử chỉ của mình để làm nổi bật tính cách của từng nhân vật trong bài, đối chất nhau nêu ý kiến của mình. Nhờ vậy các em hào hứng tham gia, tiết học trở nên sôi động và hấp dẫn, hiệu quả của những tiết dạy này khá thành công, vốn Tiếng Việt của các em cũng được cải thiện đáng kể. 3.4. Biện pháp 4: Giáo dục kĩ năng giao tiếp trong sinh hoạt Đội và hoạt động ngoài giờ lên lớp. 6
  7. Hoạt động Đội là hoạt động tập thể có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh lớp 5. Chính hoạt động Đội đã giúp các em thấy mình dường như lớn lên, trưởng thành hơn, vào Đội các em được giao lưu, học hỏi với các bạn đội viên khác trong trường, được hoạt động chung, được tham gia các phong trào, các cuộc thi do Đội tổ chức như: thi văn nghệ, thi phụ trách sao giỏi, thi chúng em là học sinh Tiểu học. Là những đội viên tiên phong để tham gia vào đội ngũ Đoàn. Qua hoạt động Đội rèn cho các em nhiều kĩ năng giao tiếp mới đó là giao tiếp với các anh chị phụ trách Chi đội, các đội viên, các sao, giao tiếp với các bạn trong Ban chỉ huy Liên đội, tạo cho các em giao tiếp trong các mối quan hệ đa dạng hơn. Giáo dục các em biết giao tiếp phù hợp trong các tình huống của môi trường mới mà người đội viên tham gia. Tôi cũng luôn chú trọng rèn kĩ năng giao tiếp cho các em qua những tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp. Ví dụ: Nhân kỉ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12 tôi đã cho các em tìm hiểu về truyền thống của quân đội ta. Các em thi nhau tìm hiểu qua sách, báo, Internet; có em thì hỏi ông bà, cha mẹ những việc có liên quan đến sự hình thành, phát triển và những chiến công vang dội của quân đội ta. Tôi đã tạo điều kiện cho các em thể hiện những hiểu biết của mình qua phần thi Hái hoa dân chủ. Tôi thấy các em trả lời câu hỏi của mình rất rõ ràng, mạch lạc pha lẫn cả niềm tự hào trong đó. Tiết học hôm đó không chỉ giáo dục cho các em về truyền thống của quân đội ta mà còn giúp các em thể hiện được những hiểu biết, những ước mơ đồng thời thấy được cả trách nhiệm của mình viết tiếp những trang lịch sử vẻ vang của dân tộc. Qua các cuộc giao lưu và hoạt động ngoài giờ lên lớp các em được rèn luyện và hoàn thiện kĩ năng ứng xử, kĩ năng nói, kĩ năng trao đổi phù hợp, biết thể hiện cảm xúc, điệu bộ cử chỉ khi giao tiếp. Ban đầu các em còn ngại ngùng, chưa biết trình bày, nhưng với cách tiến hành như trên sau một thời gian chúng tôi nhận thấy đa số các em rất tự tin đứng trước tập thể giới thiệu về bản thân, sở thích của mình, mạnh dạn khi biểu diễn, biết nói cảm ơn xin lỗi trong từng tình huống cụ thể, biết thể hiện thái độ lễ phép với thầy cô, thân thiện với bạn bè. 3.5. Biện pháp 5: Phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng trong việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn 7
  8. ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội phức tạp. Cha mẹ và thầy cô giáo phải là những người bạn của con, tiếp cận trẻ một cách chậm rãi, tạo thời gian để con thích nghi dần với phương pháp đã đặt ra cho việc rèn luyện giao tiếp cho học sinh. Nếu học sinh là người nhút nhát, tự ti, không giao tiếp hay sợ hãi khi phải nói, tôi tìm hiểu những vấn đề mà học sinh gặp phải, hoặc cố gắng đứng dưới góc nhìn của con để suy xét, thầy cô và cha mẹ sẽ hiểu con đang nghĩ và cảm nhận gì để có thể trò chuyện khích lệ con. Bên cạnh đó, giáo viên nên thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh, nhắc nhở họ chịu khó tâm sự, trò chuyện với con mọi lúc để hiểu tâm tư tình cảm của con. Cha mẹ phải đồng hành và khuyến khích để tạo lòng tin cho trẻ bằng cách để con nói lên các chính kiến của mình, luôn lắng nghe, tôn trọng con và uốn nắn từng lời ăn tiếng nói của con mình với mọi người xung quanh khi ở nhà. 4. Cách thức, quy trình thực hiện biện pháp Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài: “ Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 5” được tiến hành từ đầu năm và đã thu được kết quả tốt ở thời điểm hiện tại của lớp 5E tôi đang giảng dạy. Việc thực hiện các biện pháp được thực hiện trong các môn học. Kết quả về sự tiến bộ của học sinh trong giờ học đã được tôi ghi chép lại để so sánh, rút kinh nghiệm vào từng thời điểm của năm học để đề ra các biện pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn. III. THỰC NGHIỆM BIỆN PHÁP TẠI ĐƠN VỊ 1. Đối tượng, nội dung, phương pháp thực nghiệm a. Đối tượng thực nghiệm - Học sinh lớp 5E trường Tiểu học An Tiến, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. b. Nội dung thực nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 5. c. Phương pháp thực nghiệm Trong quá trình nghiên cứu tôi vận dụng và phối hợp các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp nghiên cứu bằng điều tra, quan sát. - Phương pháp thực nghiệm thống kê kết quả. - Phương pháp điều tra thực trạng, thực hành. 2. Tiến trình thực nghiệm 8
  9. * Bước 1: Khảo sát thực trạng học sinh Ngay từ đầu năm học, tôi đã khảo sát chất lượng học tập các môn học của học sinh. Sau đó tôi phân nhóm học sinh tùy theo năng lực nhận thức. * Bước 2: Áp dụng các biện pháp Áp dụng các biện pháp đã nêu ở trên để rèn kĩ năng giao tiếp thông qua các giờ học ở tất cả các môn học cho học sinh nhằm nâng cao năng lực. * Bước 3: Đánh giá kết quả Thường xuyên luyện tập, kiểm tra, đánh giá kĩ năng của học sinh qua từng giờ học, từng tháng, từng kì. * Bước 4: Đánh giá kết quả thực nghiệm thông qua các tiết dạy trên lớp. 3. Đánh giá kết quả thực nghiệm Sau 1 học kì thực dạy và áp dụng những biện pháp nêu trên trong mỗi tiết ở các môn học, tôi đã thấy các em có nhiều tiến bộ rõ rệt: Khả năng Số học sinh Tỉ lệ (%) ( Trước khi áp dụng biện pháp ) Biết vận dụng thành thạo các kĩ năng giao tiếp 5 18,5 % vào sinh hoạt ngày thường Biết vận dụng nhưng chưa thường xuyên 15 55,5 % Chưa biết vận dụng các kĩ năng giao tiếp vào 7 26,0 % trong sinh hoạt hằng ngày Khả năng Số học sinh Tỉ lệ (%) ( Sau khi áp dụng biện pháp ) Biết vận dụng thành thạo các kĩ năng giao tiếp 16 59,2 % vào sinh hoạt ngày thường Biết vận dụng nhưng chưa thường xuyên 8 29,6 % Chưa biết vận dụng các kĩ\năng giao tiếp vào 3 11,2 % strong sinh hoạt hằng ngày So sánh kết quả khảo sát thời điểm trước khi áp dụng biện pháp với thời điểm sau khi áp dụng biện pháp thì ta thấy số lượng học sinh biết vận dụng thành thạo các kĩ năng giao tiếp vào sinh hoạt ngày thường là 59,2%, số học sinh biết vận dụng nhưng chưa thường xuyên là 11,2%. 9
  10. Từ kết quả trên, tôi thấy biện pháp tôi đưa ra có tính khả thi cao so với lớp mình. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và nâng cao được năng lực chuyên môn, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học. * Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp + Hiệu quả kinh tế: - Giáo dục trong nhà trường Tiểu học có vai trò nền tảng góp phần đào tạo thế hệ học sinh phát triển toàn diện. Việc vận dụng các giải pháp rèn kĩ năng giao tiếp của học sinh không vất vả cũng như không tốn kém về kinh tế của phụ huynh cũng như nhà trường. Bên cạnh đó đó nó còn tạo ra sản phẩm của giáo dục đó là những con người với nhân cách “đủ đức đủ tài” xứng đáng là chủ nhân của đất nước trong tương lai. + Hiệu quả về mặt xã hội: - Nhờ vận dụng thành thạo kỹ năng giao tiếp các em học sinh biết cách giải quyết những tình huống trong cuộc sống hàng ngày, giúp các em nói những điều các em muốn nói, làm những việc nên làm, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. - Những biện pháp trên được áp dụng thành công giúp tôi nhận được sự tin tưởng, yêu mến của học sinh và của phụ huynh học sinh. + Giá trị làm lợi khác: - Từ những kết quả tốt đẹp do áp dụng các biện pháp mà có được, bản thân tôi có thêm tự tin, yêu nghề và ngày càng cố gắng tự học tự rèn để nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có động lực để phấn đấu vì sự nghiệp giáo dục của đất nước. - Học sinh ngoan, lễ phép, biết chào hỏi khi gặp thầy cô và người lớn. Nhiều em mạnh dạn, tự tin hơn khi trả lời trước lớp, biết bày tỏ ý kiến của mình về câu trả lời của bạn trong các giờ học. Từ đó các em xác định được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, nhà trường và xã hội. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. Kết luận Muốn nâng cao chất lượng hiệu quả kĩ năng giao tiếp, theo tôi giáo viên cần làm tốt những việc sau: - Xác định đúng mục tiêu dạy học của bộ môn, trọng tâm của từng bài và chuẩn kiến thức kĩ năng mà học sinh phải đạt được. Vận dụng linh hoạt các phương pháp và cách thức dạy phù hợp. Phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh, giáo viên là người dẫn dắt, gợi mở, giúp các em lĩnh hội kiến thức. 10
  11. - Giáo viên phải đầu tư thời gian chuẩn bị bài, xây dựng tổ chức các hoạt động sôi nổi tạo hứng thú cho học sinh trên lớp học. Luôn động viên khích lệ học tập đọc đối với học sinh, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Đặc biệt giáo viên cần chú ý đến tích cực hoá hoạt động của học sinh thông qua xây dựng hệ thống bài tập. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần phải thường xuyên trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ, vận dụng vào giảng dạy đạt kết quả tốt. 2. Đề xuất a. Đối với nhà trường - Kết hợp với tổ chuyên môn dự giờ những tiết dạy của các môn học để rút kinh nghiệm chung. - Hằng năm, nhà trường nên cùng tổ chuyên môn tổ chức cho học sinh sân chơi Tiếng Việt qua các hình thức như: “Hội thi đọc hay, viết đẹp”, “ Mỗi tuần một câu chuyện đẹp, một cuốn sách hay”,... b. Đối với các cấp quản lý giáo dục - Nên tổ chức lớp tập huấn, hướng dẫn chuyên đề để giáo viên có thêm kinh nghiệm giảng dạy, đặc biệt là các chuyên đề hướng dẫn phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Trên đây là biện pháp của tôi trong việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 5. Các biện pháp trên mặc dù viết trong thời gian ngắn với kinh nghiệm có hạn tôi đã rất cố gắng nhưng không tránh được thiếu sót. Tôi rất mong được sự quan tâm, chia sẻ, đóng góp của Hội đồng khoa học và lãnh đạo cấp trên để tôi rút kinh nghiệm và tiếp tục áp dụng vào thực tế ngày một hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! An Tiến, ngày 10 tháng 1 năm 2024 XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG TÁC GIẢ Phạm Thị Sơn Phạm Thị Thu Phương 11