Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy từ loại: Danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4

      1. Tên sáng kiến: 

    Biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy từ loại: Danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4.

      2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chuyên môn – Giáo viên dạy lớp.

      3. Mô tả bản chất của sáng kiến:

         3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:

doc 8 trang lananh 17/03/2023 8860
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy từ loại: Danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_de_nang_cao_hieu_qua_day_tu.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy từ loại: Danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4

  1. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số: 1. Tên sáng kiến: Biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy từ loại: Danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chuyên môn – Giáo viên dạy lớp. 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết: Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu đặc biệt là trong dạy học về từ loại, thông thường giáo viên dựa vào SGK, SGV, chuẩn kiến thức kĩ năng cung cấp cho học sinh các khái niệm về danh từ, động từ, tính từ nhằm giúp cho học sinh nhận diện được danh từ, động từ, tính từ và đặt câu với danh từ, động từ, tính từ. Nhưng qua thực tế giảng dạy thì các tiết dạy về từ loại chưa đạt hiệu quả cao, học sinh chưa hiểu tận tường, còn lúng túng, chưa xác định được các từ loại trong đoạn văn hoặc xác định chưa chính xác. Về nội dung chương trình dạy phần này trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Nhiệm vụ của người giáo viên tiểu học là cung cấp những kiến thức một cách toàn diện cho học sinh. Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài này. Với suy nghĩ: "Làm thế nào để học sinh nắm chắc kiến thức này và tự tin trong học tập ?" nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy từ loại: Danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4”. 3.2. Nội dung của giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: *Mục đích của giải pháp: 1
  2. tượng học sinh. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát kiểm tra, Từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc hoặc những học sinh chưa nắm vững kiến thức để giúp các em từng bước nắm vững kiến thức hơn. - Luôn động viên, khuyến khích các em để các em hứng thú trong học tập. - Phê bình nhẹ nhàng đối với các em làm sai hoặc chưa nắm vững kiến thức giúp các em tránh được sự chán nản. Các biện pháp được áp dụng cụ thể là: Trước tình hình học sinh chưa xác định được hoặc xác định chưa đúng từ loại tôi đã nghiên cứu và áp dụng các biện pháp sau: * Giúp học sinh nắm chắc lí thuyết về từ loại: Khi dạy học các bài về từ loại tiếng Việt ở lớp Bốn ngoài việc cung cấp cho học sinh khái niệm của chúng theo nội dung của sách giáo khoa và sách giáo viên, giáo viên cần quan tâm cung cấp thêm cho học sinh một số dấu hiệu nhận biết khác nhau như: + Khả năng làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu: Danh từ thường làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu. Khi làm vị ngữ, danh từ thường kết hợp với từ “là”(VD: Nam là học sinh.). Động từ thường làm vị ngữ trong câu (VD: Bạn Hồng đang viết bài) và cũng có thể làm chủ ngữ trong câu (VD: Chơi diều rất thú vị.) nhưng khi đóng vai trò là chủ ngữ động từ mất khả năng kết hợp với các từ đã, đang, sẽ, chớ, đừng, Tính từ thường làm vị ngữ trong câu nhưng khả năng này có hạn chế, tính từ chỉ có thể đóng vai trò vị ngữ khi có các hư từ ( như, đã, đang, sẽ, rất, lắm, quá, ) đi kèm hoặc chủ ngữ có ý nghĩa xác định(VD: Cô ấy rất đẹp.) Tính từ cũng có thể làm chủ ngữ (VD: Thật thà là đức tính tốt.) nhưng khi đóng vai trò chủ ngữ, tính từ mất khả năng kết hợp với các từ đã, đang, sẽ, rất, lắm, quá, + Khả năng kết hợp của chúng với một số từ khác: Danh từ cụ thể: chỉ những sự vật mà ta có thể nhận ra được bằng giác quan (nhìn, nghe, ngửi, thấy, đếm được )VD: phấn, tập, Danh từ trừu tượng: chỉ những sự vật mà ta nhận ra được bằng suy nghĩ chứ không phải bằng các giác quan VD: nỗi buồn, niềm vui, Muốn biết một từ có phải là danh từ không thì cần phải thử xem: 3
  3. Chẳng hạn: Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập về tìm ra các danh từ, động từ, tính từ trong đoạn văn, trước hết giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn văn đã cho xem có từ nào chỉ người, chỉ vật, thì từ đó là danh từ. Để nhận biết các danh từ, học sinh đặt câu hỏi: “Ai, Con gì, Cái gì? ”, những từ nào trả lời được câu hỏi này thì chúng là danh từ. VD: Con chim bay qua vườn rau. ( Con gì bay qua vườn rau?). Những từ chỉ hoạt động, trạng thái của người, sự vật, vật hoặc chỉ chỉ cảm xúc, những từ trả lời được câu hỏi “Làm gì?” là động từ VD: Bạn Lan đang viết bài.(Bạn Lan đang làm gì?). Những từ chỉ màu sắc, hình dạng, kích thước, tính chất của sự vật, hoặc kèm với các từ chỉ mức độ, các từ trả lời được câu hỏi “như thế nào?” thì đó là tính từ. VD: Chiếc cặp của em rất đẹp.( Chiếc cặp của em như thế nào?) VD: Học sinh tìm tính từ trong đoạn văn ở bài tập 1 Sách Tiếng Việt lớp 4 Tập 1 trang 111: Học sinh đọc yêu cầu, đọc đoạn văn, giáo viên giảng thêm về cách nhận diện tính từ: Muốn biết một từ nào đó có phải là tính từ không, em cần thử xem: từ đó có thể dùng kèm với các từ chỉ mức độ (hơi, rất, lắm, quá, ) được không. Nếu được thì đó là tính từ. Sau đó học sinh tìm, giáo viên chốt các từ đúng: gầy gò, cao, sáng, thưa, cũ, trắng, nhanh nhẹn, đềm đạm, đầm ấm, khúc chiếc, rõ ràng, quang, sạch bóng, xám, xanh, dài, hồng, to tướng, ít, thanh mảnh. Để học sinh được ôn luyện kiểm tra về từ loại, kĩ năng xác định và sử dụng đúng từ loại, giáo viên cần áp dụng các bài tập sau đây : Chẳng hạn: + Xác định từ loại cho từ: Cách 1: Xác định từ loại trong đoạn thơ văn có sẵn: VD: Xác định động từ, danh từ, tính từ trong hai câu thơ của Bác Hồ: “ Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay Vượn hót chim kêu suốt cả ngày” Ở bài tập này, học sinh cần phải xác định ý nghĩa và các khả năng kết hợp của từ rồi xếp chúng vào loại thích hợp: - Danh từ: cảnh, rừng, Việt Bắc, vượn, chim , ngày - Động từ: hót, kêu 5
  4. sinh và những sai phạm mà học sinh có thể mắc phải để chuẩn bị phương án sửa chữa, điều chỉnh. Khi thực hiện bài tập: giáo viên phải nắm được trình tự làm bài, theo dõi quá trình thực hiện của học sinh để điều chỉnh kịp thời. Khi học sinh không thực hiện được bài tập giáo viên phải phân cắt thành từng bước nhỏ và xác định được học sinh gặp khó khăn ở chỗ nào để từ đó giúp các em nắm kiến thức và làm được bài tập. Học sinh làm bài xong phải kiểm tra, đánh giá, có thể cho học sinh kiểm tra lẫn nhau. Đánh giá không nhất thiết phải cho điểm nhưng phải có mẫu lời giải đúng để học sin tự đối chiếu, đánh giá bài làm của bạn hoặc bài làm của mình. - Khi dạy các bài“Danh từ”,“Động từ”,“Tính từ” giáo viên cần giảng thêm khả năng kết hợp, khả năng giữ chức vụ ngữ pháp trong câu của từ loại giúp học sinh khắc sâu cách nhận diện danh từ, động từ, tính từ. Giáo viên phải khéo léo trong việc mở rộng về từ loại, tổ chức các hình thức dạy học khác nhau nhằm phát huy được tính tích cực của học sinh giúp các em ham thích học tập về từ loại, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học từ loại. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp: Sáng kiến kinh nghiệm này sẽ giúp giáo viên nhìn lại thực trạng về dạy từ loại: danh từ, động từ, tính từ ở lớp 4 từ đó tìm ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy từ loại. Đặc biệt là việc cải tiến cách dạy sao cho hiệu quả hơn và đã triển khai trong tổ chuyên môn khối Bốn và vận dụng linh hoạt tùy theo trình độ học sinh của mỗi lớp. Sáng kiến này có tính khả thi đã được phổ biến cho giáo viên của trường cùng tham khảo và thực hiện. 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp: Trong quá trình dạy học, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt. Trong mỗi bài tập giáo viên đã kết hợp khéo léo việc mở rộng dạy học từ loại để củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh vì thế học sinh vận dụng tốt, nhận diện đúng danh từ, động từ, tính từ hơn. Học sinh có hứng thú trong giờ học về từ loại không còn sợ sệt như trước đây. Học sinh đã nắm vững về thuật ngữ từ loại, phân biệt các từ loại cơ bản: danh từ, động từ, tính từ nhanh, chính xác, biết sử dụng các từ loại trong câu văn đúng chỗ, tự tin, hào hứng khi học đến phần này, nâng cao 7