Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh yếu kém học được Đại số 9

Tỷ lệ học sinh yếu kém của các trường còn rất cao, trong đó bộ môn Toán luôn có tỷ lệ học sinh yếu kém cao hơn các môn học khác. Việc học tập môn Toán cũng có quyết định nhiều đến việc học tập của mọi sinh trong trường. Thực tế cho thấy học sinh học giỏi Toán thì phần nhiều rất ham học các môn khác và học lực thường khá giỏi ; Ngược lại học sinh yếu Toán thì thường tỏ ra lười biếng học tập các môn khác, kết quả học tập thường ở dạng trung bình hoặc yếu kém và cũng có nhiều nguy cơ bỏ học. Với học sinh yếu kém ta không thể trong thời gian ngắn mà yêu cầu các em học tốt được bộ môn mà chỉ yêu cầu các em học được kiến thức của bộ môn là một điều mà mọi giáo viên đều mong muốn.
doc 9 trang lananh 17/03/2023 1620
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh yếu kém học được Đại số 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_yeu_kem_hoc_duoc_dai_so.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh yếu kém học được Đại số 9

  1. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số : (do thường trực HĐ ghi ): . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1. Tên sáng kiến : “Giúp học sinh yếu kém học được Đại số 9”. Tác giả : Lê Quang Lộc – Giáo viên trường THCS Ba Mỹ - Huyện Ba Tri. 2. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến : Chất lượng chuyên môn giáo dục. 3. Mô tả bản chất của sáng kiến : 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết : Tỷ lệ học sinh yếu kém của các trường còn rất cao, trong đó bộ môn Toán luôn có tỷ lệ học sinh yếu kém cao hơn các môn học khác. Việc học tập môn Toán cũng có quyết định nhiều đến việc học tập của mọi sinh trong trường. Thực tế cho thấy học sinh học giỏi Toán thì phần nhiều rất ham học các môn khác và học lực thường khá giỏi ; Ngược lại học sinh yếu Toán thì thường tỏ ra lười biếng học tập các môn khác, kết quả học tập thường ở dạng trung bình hoặc yếu kém và cũng có nhiều nguy cơ bỏ học. Với học sinh yếu kém ta không thể trong thời gian ngắn mà yêu cầu các em học tốt được bộ môn mà chỉ yêu cầu các em học được kiến thức của bộ môn là một điều mà mọi giáo viên đều mong muốn. Vì vậy, việc có phương pháp đúng đắn để giúp các em học sinh yếu kém có thể học được từ đó nâng cao chất lượng bộ môn Toán có quyết định nhiều đến việc nâng cao chất lượng học tập của từng học sinh và chất lượng giáo dục chung trong trường Tuy nhiên, nhiều giáo viên dạy toán thường gặp nhiều khó khăn khi dạy đối tượng học sinh yếu kém ; Phương pháp giảng dạy hạn chế, kết quả giảng dạy chưa theo ý muốn, chưa đáp ứng được theo yêu cầu chung của bộ môn và của trường. Mục đích của sáng kiến : Nhằm giúp cho giáo viên có phương pháp đúng để giúp học sinh yếu kém môn Toán học được kiến thức của bộ môn. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến : Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm là giáo viên có thể giúp học sinh yếu kém học được bộ môn Toán thông qua các hoạt động rất bình thường, rất gần gũi đối với học sinh.
  2. Sách giáo khoa thường chỉ trình bài chung, hạn chế các bước thực hiện nên học sinh trung bình hay yếu kém không thể tự học theo sách được. Vì vậy khi dạy học sinh yếu kém, tôi nghiên cứu soạn kỷ lại từng bước thực hiện của từng dạng toán cơ bản trong chương trình, giúp các em tiếp cận được từng dạng toán và từng bước giải để các em có thể vận dụng dễ dàng hơn trong hoạt động giải toán. Một số ví dụ khi dạy Đại số 9 : Ví dụ 1 : Khi dạy dạng bài tập về Hằng đẳng thức A2 A có thể cho các em thực hiện theo từng bước như sau : Bước 1 : Viết biểu thức trong dấu căn thành dạng lũy thừa bậc hai. Bước 2 : Bỏ dấu căn bậc hai và dấu lũy thừa bậc hai và thay bằng dấu giá trị tuyệt đối. Bước 3 : Xác định giá trị của biểu thức trong giá trị tuyệt đối là dương hay âm để bỏ dấu giá trị tuyệt đối. Bước 4 : Bỏ dấu giá trị tuyệt đối. Nếu giá trị biểu thức trong trị tuyệt đối dương thì trị tuyệt đối của nó là chính nó ; nếu âm thì đặt thêm dấu trừ phía trước. Ví dụ 2 : Khi dạy dạng bài tập Tìm điều kiện để căn thức bậc hai xác định có thể thực hiện các bước như sau : Bước 1 : Xác định biểu thức trong dấu căn là biểu thức nào. Bước 2 : Cho biểu thức trong dấu căn 0. Bước 3 : Tìm giá trị thích hợp của biến và kết luận. Ví dụ 3 : Khi xác định phương trình đường thẳng qua hai điểm A và B có tọa độ cho trước : Bước 1 : Lấy pt đường thẳng dạng tổng quát y = ax + b làm công thức. Bước 2 : Lần lượt thay tọa độ của A và B vào công thức để được 1 hệ hai phương trình bậc nhất có ẩn là a và b. Bước 3 : Giải hệ phương trình để tìm giá trị của a và b. Bước 4 : Thay a và b vào công thức để được phương trình cần xác định. Ví dụ 4 : Các bước giải phương trình bậc hai bằng công thức nghiệm : Bước 1 : Xác định các hệ số a, b, c của phương trình.
  3. kiểm tra viết của các em thường bị điểm thấp. Để khắc phục tình trạng trên, trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng trình bày từng dạng toán cho từng học sinh bằng cách mỗi dạng bài tập tôi đều có cách trình bày riêng hoàn chỉnh làm mẫu để hướng dẫn các em, giúp các em có cơ sở và biết cách trình bài tương tự khi học. Một khi biết cách trình bày từng dạng toán thì các em không ngại học và bài làm có điểm số cao hơn. 3.2.4. Cần có hệ thống bài tập tương tự và thay đổi dần, nâng dần các yêu cầu của bài tập lên để tập cho các em vận dụng kiến thức. Đối với học sinh yếu kém, trong mỗi dạng bài tập ngoài việc có một bài giải thật kỷ, đầy đủ các bước để làm mẫu thì sau khi thực hiện một bài tập mẫu, giáo viên cần đưa ra một số bài tập dạng tương tự để các em tự làm theo mẫu sau đó có một số thay đổi về yêu cầu để tập cho các em suy nghĩ và vận dụng một phần đã có trong bài cũ vào bài tập mới. Điều nầy giúp cho các em thấy rằng bản thân mình có thể làm được một số yêu cầu của bài, cũng cố cho các em lòng tự tin vào khả năng của mình từ đó các em tích cực suy nghĩ để giải quyết những yêu cầu mới còn lại trong bài. Khi thực hiện bài tập mới, giáo viên cần cho các em nhận xét : bài mới có những gì tương tự với bài đã thực hiện ? Những yêu cầu nào mới trong bài ? Có thể biến đổi thế nào để đưa bài mới về tương tự bài đã làm ? Có thể sử dụng kiến thức nào, phương pháp nào để thực hiện yêu cầu mới đó ? Kịp thời có câu hỏi gợi ý để dẫn dắt các em phát hiện đưa những yêu cầu mới về cái tương tự mà mình đã đã học, đã làm được. Tỉ lệ các yêu cầu tương tự trong bài tập mới để các em có thể tự làm bài được từ 20 đến 30 rồi nâng dần đến 50 hay 70%. Những yêu cầu mới có thể thay đổi dần từ ít đến nhiều, từ thấp đến nâng dần lên cao cho phù hợp với từng nội dung kiến thức cần dạy cho học sinh. Ví dụ : Khi giải phương trình bậc hai bằng công thức nghiệm đầu tiên nên chọn các phương trình đơn giản, có hoặc ' là những số có dạng bình phương như 1, 4, 9, 16 cho các em dễ tìm và dễ thay vào công thức để tìm nghiệm, sau đó thay đổi dần những giá trị khó hơn không có dạng bình phương để các em làm quen dần và không thấy khó khăn khi thực hiện.
  4. Khi làm một dạng bài tập nào đó, tôi thường cho từng em nêu cách làm, kết quả làm bài của mình, nếu đúng thì có lời khen để động viên, nếu sai thì tôi đặt câu hỏi dẫn dắt để các em tự nhận thấy cái sai của mình, tại sao mình sai, mình có thể làm đúng được hay không, làm bằng cách nào Từ đó cho các em tự sữa chữa để được bài làm đúng. 3.2.7. Dùng những những việc làm, những hình ảnh thực tế để lồng ghép vào bài học, giúp các em có thể tính toán nhanh và dễ nhớ kiến thức toán học. Khi cho các em thực hiện các phép tính về toán học, các bài toán, giáo viên có thể thay đổi nội dung đề bài lồng ghép với các việc làm thực tế mà các em thường làm hàng ngày để các em dễ hiểu nội dung bài, dễ suy nghĩ và dễ dàng làm được bài, từ đó giúp các em vận dụng và nhớ kiến thức dễ hơn. Khi giảng dạy giáo viên có thể dùng các hình ảnh so sánh như : Số dương là số tiền ta đang có, số âm là tiền ta đã chi tiêu ; cộng cho số dương là tiền ta có thêm, cộng cho số âm là ta đã chi tiêu đi. Ví dụ : 2000 +(-1000) có thể xem như các em đang có 2000 đồng, em mua tập hết 1000 đồng thì dư hay thiếu ? số tiền còn lại là bao nhiêu ? các em dễ dàng biết được số tiền còn lại là 1000 đồng. Hoặc : Khi tính - 11 - 9 : em đã mua tập hết 11 đồng, em lại mua thêm sách 9 đồng nửa thì em đã mua tổng cộng bao nhiêu ? kết quả - 20. 3.2.8. Tập cho các em biết tận dụng sự hỗ trợ của máy tính cầm tay để học toán. Học sinh yếu kém thường tính toán chậm, học bài lý thuyết thì lâu nhớ nhưng thực hành trên máy tính thì đa số các em đều thực hiện rất nhanh. Vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi thường xuyên luyện tập cho các em biết giải phương trình và hệ phương trình bằng máy tính. Tập cho các em có thói quen sử dụng máy tính trong một số công việc như : - Kiểm tra kết quả khi thực hiện các phép biến đổi đơn giản, các phép tính về căn bậc hai. - Kiểm tra kết quả giải phương trình và hệ phương trình theo yêu cầu. - Vận dụng và giải được các phương trình và hệ phương trình khi giải toán bằng cách lập phương trình và hệ phương trình.
  5. hỗ trợ Dạy học theo 01 Huỳnh Văn Bừa 1963 THCS Ba Mỹ Giáo viên ĐHSP các giải pháp trong sáng kiến Dạy học theo 02 Hồ Văn Thịnh 1977 THCS Ba Mỹ Giáo viên ĐHSP các giải pháp trong sáng kiến 3.6. Những thông tin cần được bảo mật : không 3.7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến : + Về phía nhà trường : - Cần quan tâm thường xuyên, chuẩn bị đủ cơ sở vật chất để phụ đạo học sinh yếu kém. - Phân công giáo viên có tâm huyết với nghề, có lòng thương yêu học sinh làm công tác phụ đạo. + Về phia giáo viên : - Phải đầu tư nhiều về chuyên môn, chịu khó xây dựng các bước giải các dạng toán cho phù hợp, dễ hiểu, dễ vận dụng đối với học sinh - Phải thường xuyên theo dõi sự tiến bộ của từng học sinh để có phương pháp, nội dung giảng dạy cho phù hợp. - Giáo viên phải thể hiện được lòng thương yêu học sinh, phải gần gũi với các em, xác định từng em yếu kém là do nguyên nhân nào đồng thời nắm bắt được những khó khăn các em gặp phải để hỗ trợ kịp thời, tạo cho các em thấy được mình luôn luôn được thầy cô quan tâm giúp đở. - Phải hết sức thông cảm với các em, không nên có những lời lẽ chê bai khi các em làm chưa được vì như thế dễ làm cho các em thấy mặc cảm, chán nãn, không còn ham thich học tập. - Cần có những lời khuyên động viên, những lời khen và biểu dương kịp thời đối với các em khi các em làm tốt một nội dung nào đó dù là rất nhỏ để các em phấn khởi và cảm thấy tự tin, ham học hơn. 3.8. Tài liệu kèm theo : Không